10 Interesting Facts and Figures about London Taxis You Might Not Have Known 10 Điều thú vị về những chiếc Taxis ở London- có thể bạn chưa biết?

Làn sóng Uber đang gây chao đảo ngành công nghiệp Taxi ở Vietnam cũng như nhiều nước trên thế giới. Thế nhưng ở London, Uber chắc chắn sẽ khó có thể đọ sức được với những chiếc taxi đen trông có vẻ cổ kính mà người dân thường quen gọi là London Black Cab. Là một trong những biểu tượng sống động và điển hình nhất của thành phố London, những chiếc taxi đen ngày ngày vẫn vi vu trên phố như những sứ giả văn hoá độc nhất vô nhị. Không đơn giản là phương tiện đi lại, London Black Cab còn ẩn chứa rất nhiều những câu chuyện thú vị mà có khi ngay cả chính người London cũng chưa biết. Hôm nay chuyến tàu của English For ALL sẽ đưa bạn tới Ga British Way để tìm hiểu xem những “con bọ hung đen” này của London có gì đặc biệt nhé! All aboard!

*. Ở London, có hai loại taxi, loại taxi được đề cập tới trong bài viết này là London Black Cab là loại taxi truyền thống, có giá thành cao hơn so với một loại taxi khác là minicab – loại taxi của các hãng nhỏ có giá rẻ hơn và được thông báo cho hành khách trước khi bắt đầu lộ trình.

 1. The Knowledge – Hiểu biết đáng nể!!!!!

Khác với ở Vietnam, bạn chỉ cần một bằng lái xe hơi và là nhân viên của một hãng taxi, bạn đã trở thành một tài xế taxi chuyên nghiệp. Tuy nhiên, để trở thành một tài xế taxi ở London, hoàn toàn không đơn giản như vậy. Điều quan trọng nhất để trở thành một tài xế taxi London đó là “The Knowledge” – một bài kiểm tra mà tất cả các tài xế taxi phải vượt qua trước khi nhận được giấy phép (license) hành nghề. Nếu muốn trở thành tài xế taxi chuyên nghiệp và rong ruổi trên những chiếc black cab khắp phố phường London, họ phải mất từ 2-4 năm để học thuộc và nắm vững 320 tuyến đường (routes) ở London trong bán kính (radius) 6 dặm (6 miles – tương đương 10km) tính từ Charing Cross – tâm điểm của London, nơi có quảng trường Trafagar Square đã được đề cập tới trong bài viết thứ Sáu tuần trước của English4ALL. Tương đương với 25.000 tên phố và 20.000 tên của các toà nhà, công trình (landmarks). Chỉ những tài xế vượt qua bài thi này mới được cấp thẻ xanh (green badge), còn có một loại thẻ khác là thẻ vàng (yellow badge) dành cho một phạm vi nhỏ hơn dành cho vùng phụ cận (suburban area) của London, và không được khu vực của những tài xế có thẻ xanh. Bạn có thể tin rằng, những tài xế taxi London chính là những bách khoa toàn thư di động – bản đồ sống về London, chỉ cần vẫy xe và nói với tài xế điểm bạn cần đến, chỉ cần là một cái tên trong phạm vi 10km trong khu vực trung tâm London, họ sẽ ngay lập tức biết sẽ phải đưa bạn đi đâu mà không tốn đến 1s để tìm đường.

Green Badge

 2. Đa màu sắc

Mặc dù màu đen là màu truyền thống và phổ biến nhất của taxi London, nhưng đó không phải là màu bắt buộc, chúng có thể mang màu xanh, màu vàng, màu đỏ hay bất cứ màu gì, nhưng chủ yếu màu đen là đông đảo hơn cả.

 London Taxi

3. Mỗi một chiếc taxi là một “công ty” di động

Khác với các loại hình taxi khác hoạt động theo hãng và có chung một công ty quản lý, gần 21.000 chiếc taxi “đen” ở London là 21.000 “công ty” di động. Nói cách khác, mỗi người tài xế đồng thời là chủ nhân của chiếc xe và là một doanh nghiệp hoàn toàn độc lập. Bước lên một chiếc taxi cũng giống như bạn bước vào một cửa hàng.

4. Tiền thân của những chiếc taxi đen ngày này là gì vậy? Đó là những chiếc xe ngựa.

Giấy phép taxi đầu tiên ở London được cấp năm 1639 cho Corporation of Coachmen. Hackney carriages, hãng xe ngựa kéo mà sau này trở thành hãng Hansom Cabs năm 1834. Những chiếc xe hơi taxi thực thụ có mặt ở London vào khoảng 1908 và đến những năm 1920 đã thay thế những chiếc xe ngựa kéo hai bánh (hansom cabs) trở thành phương tiện taxi chủ yếu.

 London hansom cab

5. Muốn lái London cab, phải CAO!!!

Theo luật, những chiếc taxi London phải có chiều cao đủ để hành khách ngồi thoải mái trong vẫn đội chiếc mũ bowler của người Anh. Thêm vào đó, đã có thời, các tài xế taxi xe ngựa (hackney carriages) bắt buộc phải mang theo một bó cỏ khô (hay) cho ngựa ăn. Điều luật này thậm chí còn được giữ cho tới cả sau khi có những chiếc taxi cơ giới đầu tiên hoạt động.

10 Interesting Facts and Figures about London Taxis  10 Điều thú vị về những chiếc Taxis ở London- có thể bạn chưa biết? www.english4all.vn

6. Vòng cua ấn tượng.

Những chiếc taxi đen chỉ cần vòng cua quay đầu (a turning circle) khoảng 25 feet (gần 8m). Điều này cho phép xe có thể luồn lách vào mọi ngóc ngách của thành phố London, và đủ đi vào lối vào nhỏ của khách sạn Savoy Hotel. Đây đã trở thành yêu cầu bất buộc của mọi xe taxi London.Savoy Court cũng là một trong những địa điểm duy nhất ở London mà các phương tiện đi phía bên phải.

7. Muốn gọi xe, đừng hét!

Bạn sẽ trái luật nếu như hét to lên “Taxi” để thu hút sự chú ý của tài xế. Nếu bạn thấy một chiếc xe taxi sáng đèn, chỉ cần giơ tay để báo hiệu cho tài xế.

 London Black Cab 2

8. Taxi là gì?

Từ taxi bắt nguồn từ taximeter – đây là thiết bị tính đường đi và thành tiền được gắn trong các xe taxi. “Cab” là viết tắt của cabriolet- một động từ tiếng Pháp nghĩa là “nhảy” (to leap) – cũng là một loại taxi mà người ta thường nhảy ra khỏi xe khi kết thúc hành trình.

9. Nhà vệ sinh của xe ở đâu???

Đến bây giờ người ta vẫn không biết đây là chuyện có thật hay đùa nhưng người ta thường dẫn điều luật Town Police Clauses Act năm 1847 cho phép một người có thể được phép “tè” vào phía bánh xe bên trái phía sau của một chiếc taxi, miễn là tay phải của tài xế vẫn đang chạm vào chiếc xe.

10. Bị bệnh thì đừng đi taxi!

Đã có thời cũng là trái luật (illegal) nếu như một ai đó bắt taxi trong khi đang bị bệnh dịch hạch (bubonic plague). Điều này hiện nay vẫn đúng một phần, vì theo luật Y tế Công Cộng (Public Health (Control of Disease) Act of 1984) yêu cầu người đang bị bệnh dịch (a notifiable disease) phải thông báo cho tài xế biết để họ quyết định có chở khách hay không. Nếu tài xế quyết định nhận khách, anh ta sẽ phải thông báo cho nhà chức trách và khử trùng (disinfect) chiếc xe trước khi được đón khách tiếp theo.

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4all.vn

10 Interesting Facts and Figures about Trafalgar Square – London. – 10 Điều thú vị về Quảng trường Trafagar ở London.

Hàng năm mỗi khi thấy cây thông khổng lồ được dựng lên và sáng đèn trên quảng trường Trafagar, đó là lúc một mùa Giáng Sinh nữa đang đến gần. Không chỉ được mệnh danh là “trái tim của London”, quảng trường Trafagar còn là một trong những quảng trường đẹp và nổi tiếng nhất thế giới mà không du khách nào có thể bỏ qua khi đến thăm Vương Quốc Anh với những dấu ấn kiến trúc hoành tráng vẫn còn lại qua bao năm tháng. Quảng trường Trafagar còn chứa đựng nhiều điều thú vị hơn thế nữa mà English4ALL hôm nay sẽ giới thiệu tới các bạn trong chuyến tàu thứ Sáu của British Way. All aboard!

Trafagar 7
Toàn cảnh Trafagar Square nhìn từ Nhà triển lãm quốc gia (National Gallery)

1. Điểm nhấn chính (centrepiece) của quảng trường Trafagar (Trafagar Square) là cột đá Nelson (Nelson Column) được dựng lên để vinh danh Đô Đốc (Admiral) Horatio Nelson người đã lãnh đạo quân Anh giành chiến thắng trong trận Trafagar (Battle of Trafagar). Cột Nelson cao 169.3 feet (gần 52m), được phục chế lại vào năm 2006

Trafagar 2
Tượng Đô Đốc Nelson trên đỉnh cột đá

2. Phần bệ đỡ (pedestal) của cột Nelson được trang trí bằng bốn bức phù điêu bằng đồng (four bronze relief panels), mỗi tấm rộng 18 feet vuông, được đúc từ súng ống thu được của quân Pháp. Bốn bức phù điêu này khắc hoạ (depict) cảnh trận Cape St Vincent, trận sông Nile, trận Copenhagen, và cảnh tướng Nelson tử trận ở Trafagar.

Trafagar 8
Một trong 4 tấm phù điêu dưới chân cột đá Nelson

3. Các đài phun nước (fountains) ở quảng trường Trafagar, mặc dù mang tính chất biểu tượng cho cả quảng trường nhưng vẫn không tránh khỏi lệnh cấm của chính phủ trong mùa hè năm 2012, các đài phun nước này phải ngừng hoạt động do hạn hán kéo dài (prolonged drought ) ở Anh

Trafagar
Một trong hai đài phun nước trên Trafagar Square

4. Tại quảng trường có 4 bệ tượng (plinths) ở bốn góc vuông, 3 trong số đó đặt tượng của các vị vua trước đây của Anh Quốc. Riêng bệ tượng thứ tư, không bao giờ đặt tượng cố định mà trở thành nơi luân phiên trưng bày nghệ thuật. Trước đây đặt mô hình tàu HMS Victory (tàu của Đô đốc Nelson), đôi khi đổi thành Powerless Structures – tượng một cậu bé trên con ngựa gỗ (rocking horse) cao 4.1 m, đúc bằng đồng là tác phẩm của Michael Elmgreen và Ingar Dragset . Năm 2013, con ngựa gỗ sẽ được thay thế bằng Hahn / Cock – tượng một chú gà trống, biểu tượng cho “sự tái sinh- bừng tỉnh và sức mạnh” (regeneration, awakening and strength) của nghệ sĩ Katharina Fritsch.

Trafagar 4

Trafagar 5

Trafagar 6

5. Quảng trường Trafagar Square từng nổi tiếng là ngôi nhà của hàng ngàn chú chim bồ câu. Tuy nhiên việc cho chim ăn bừa bãi đôi khi lại thành gây hại, vì vậy vào năm 2003, thị trưởng London Ken Livingston đã tuyên chiến với bồ câu bằng lệnh cấm cho bồ câu ăn (cũng như bán các loại đồ ăn choc him gần khu vực quảng trường). Chính quyền còn thuê hẳn một con diều hâu (a hawk) để xua đuổi bồ câu. Dần dần đã giải tán được vấn nạn bồ câu, và đã có thể tổ chức các buổi hoà nhạc (concerts) hay sự kiện công cộng (public events) tại đây.

6. Mỗi năm, có một cây Giáng Sinh (a Christmas tree) được đặt ở giữa trung tâm quảng trường. Năm nào cũng cùng một loại cây giống nhau, một cây vân sam Na Uy (a Norwegian Spruce), đây là quà tặng của Na Uy để tỏ lòng biết ơn của nhân dân Na Uy đối với sự giúp đỡ của Anh trong Đại chiến thế giới lần thứ 2. Theo truyền thống, thị trường của Westminster (the Lord Mayor of Westminster) sẽ thăm Oslo – thủ đô Na Uy vào cuối mùa thu để tham gia hạ cây, và thị trường của Oslo sẽ đến London để thắp đèn cho cây vào dịp Giáng Sinh. Theo truyền thống Na Uy, đèn Giáng Sinh sẽ được treo dọc từ trên xuống (vertically) thay vì treo vòng xung quanh cây.

Cây Giáng Sinh ở Trafagar Square lên đèn là báo hiệu một mùa Giáng Sinh đã đến
Cây Giáng Sinh ở Trafagar Square lên đèn là báo hiệu một mùa Giáng Sinh đã đến

7. Có 17 tuyến xe bus chạy qua quảng trường Trafagar – hình thành nên một giao điểm của hệ thống giao thông London.

8. Trước kia quảng trường bốn phía đều giao nhau với những con đường rất đông đúc, tạo ra nguy hiểm cho khách tham quan. Năm 2003, quảng trường được quy hoạch lại và con phố phía trước Nhà triển lãm quốc gia (National Gallery) được đóng lại và tạo thành đường cho người đi bộ (pedestrianized). Các phần tường cũ bị dỡ bỏ và một bậc thềm (staircase) lớn được xây mới nối với nhà triển lãm, tạo thành một khung cảnh đẹp mắt.

9. Quảng trường Trafagar thuộc sở hữu của Nữ hoàng Anh và là một phần tài sản của Hoàng Gia, và giao cho chính quyền London (Greater London Authority) quản lý, trong khi đó các tuyến đường xung quanh quảng trường và khu vực dành cho người đi bộ ở phía bắc lại do Hội đồng thành phố Westminster quản lý.

10. Hitler đã từng có kế hoạch nếu xâm lược thành công được Anh Quốc, sẽ mang cột đá Nelson về Berlin để làm chiến lợi phẩm (a war spoil)

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4all.vn

Do you know about MOVEMBER? Nguồn gốc và ý nghĩa của MOVEMBER.

Hàng năm cứ đến tháng 11, nếu bạn đến thăm các nước nói tiếng Anh, đặc biệt là Úc, Anh………bạn sẽ gặp rất nhiều những người đàn ông để ria mép? Phải chăng để ria mép là mode thời trang của nam giới ở đây? Thực ra không phải vậy, họ đang làm từ thiện đấy. Có thể bạn hoài nghi nhưng điều đó là hoàn toàn là thật nếu như biết về MOVEMBER – một nét văn hoá mới và hiện đại của những đấng mày râu phương Tây. English4ALL xin giới thiệu đôi nét tới các bạn về phong trào Movember trong chuyến tàu tuần này của British Way. All aboard.

Mo Bros

MOVEMBER là gì?

Movember một từ ghép của từ Moustache (ria mép) và November (tháng 11) và là một sự kiện kéo dài suốt một tháng mỗi năm liên quan đến sự phát triển của ria mép và rơi vào tháng mười một, để nâng cao nhận thức về ung thư tuyến tiền liệt và các sáng kiến ung thư khác cuả phái nam

Movember nhằm mục đích để tăng cường cơ hội phát hiện ung thư sớm, chẩn đoán và điều trị hiệu quả, và cuối cùng là giảm số lượng các ca tử vong đồng thời có thể phòng ngừa được căn bệnh này. Bên cạnh việc kiểm tra hàng năm Quỹ Movember (The Movember Foundation) khuyến khích người đàn ông nhận thức được tầm quan trọng của tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư và áp dụng một lối sống lành mạnh hơn.

Quỹ Movember là một tổ chức toàn cầu hàng đầu cam kết thay đổi thực trạng về sức khoẻ nam giới.

Đến nay, cộng đồng Movember đã gây quỹ được 346 triệu bảng Anh thông qua 800 chương trình ở 21 quốc gia. Số tiền này được gây dựng và sử dụng nhằm nâng cao cuộc sống của những người đàn ông bị các bệnh ung thử tiền liệt tuyến (prostate cancer), ung thư tinh hoàn (testicular cancer) và các vấn đề sức khoẻ tâm thần (mental health problems)

Quỹ Movember thách thức (challenge) nam giới để ria mép trong suốt tháng Movember (trước đây gọi là tháng November – tháng 11) để gây quỹ (raise the funds) cho các chương trình chăm sóc sức khoẻ nam giới. Tới nay, đã có 4 triệu bộ ria mép (moustaches) được nuôi trên toàn thế giới, và con số này sẽ vẫn tiếp tục tăng chừng nào các vấn đề về sức khoẻ nam giới vẫn còn tồn tại.
movember-poster

Phong trào Movember gây guỹ như thế nào?

Các nguồn quỹ được quyên góp thông qua các chiến dịch nhận thức hàng năm (annual awareness campaign) của tổ chức diễn ra hàng năm, gọi là Movember, với việc kêu gọi hàng triệu đàn ông trên khắp thế giới để ria mép.
Vào đầu tháng Movember, các chàng trai, các quý ông sẽ hành động (take action) bằng cách “đăng ký” với một gương mặt được cạo nhẵn nhụi (a clean-shaven face) và trong suốt 30 ngày của tháng 11 sẽ để ria mép. Những quý ông hào hiệp này sẽ được gọi là Mo Bros, và những người phụ nữ trong cuộc sống của họ sẽ hỗ trợ, giúp đỡ họ được gọi là Mo Sistas, tất cả cùng với nhau tạo thành cộng đồng Movember – Mo Community để gây quỹ và nâng cao nhận thức để thay đổi tình trạng sức khoẻ nam giới.

Với một bộ ria mép mới toanh, các Mo Bros trở thành những tấm biển quảng cáo di động và biết nói cực kỳ hiệu quả (walking, talking billboards) trong suốt tháng, giống như một cuộc thi chạy hay đi bộ từ thiện, họ sẽ sử dụng bộ ria của mình để bắt đầu những cuộc trò chuyện liên quan tới những vấn đề bỏ ngỏ về sức khoẻ nam giới và tìm kiếm các nguồn ủng hộ Quỹ.

Vào cuối tháng, cộng đồng Movember sẽ ăn mừng những nỗ lực của họ bằng cách tham gia vào các Movember Gala Party được tổ chức khắp nơi trên thế giới hoặc tự tổ chức những hoạt động ăn mừng riêng với đồng nghiệp, bạn bè và các nhóm cộng đồng.

 

Nguồn gốc cuả Movember

Quỹ Movember được đồng sáng lập bởi Luke Slattery, Travis Garone, Adam Garone và Justin Coghlan năm 2003 tại Úc. Là một quỹ không lợi nhuận của tổ chức dành riêng bệnh tuyến tiền liệt nam giới. Movember bắt đầu tại Úc và đã phát triển lên một phong trào toàn cầu, chiến dịch chính thức có mặt tại Canada, Vương quốc Anh, Ireland, Hoa Kỳ, New Zealand, Tây Ban Nha, Hà Lan, Nam Phi và Phần Lan.

Ý tưởng của Movember đến từ một cuộc trò chuyện giữa Luke Slattery và Travis Garone năm trước khi Foundation được thành lập. Luke và Travis xem thời trang chung trên thế giới đã đi qua và sự trở lại của xu hướng thời trang từ quá khứ khi câu hỏi đã được đặt ra, tại sao không trở lại của ria mép?

Cả hai cảm thấy- Moustache – Mo có thể làm với một sự hồi sinh, phát triển một bộ ria mép trong vòng một tháng từ đó Movember được sinh ra.

Năm 2003, chỉ 30 Mo Bros tham gia. Các quy tắc đơn giản, bắt đầu vào tháng 11 cạo sạch và dành phần còn lại của tháng để phát triển một Mo. Ý tưởng rất đơn giản chỉ để xem ai có thể phát triển các bộ ria mép tốt hơn.

Trong năm 2004, 450 Mo Bros đã tham gia cùng với bạn tình, bạn bè và gia đình để tài trợ cho sự tăng trưởng Mo của họ , trước sự ngạc nhiên của mọi người, họ đã quyên được $ 55.000. Đó là đóng góp lớn nhất PCFA chưa bao giờ nhận được vào thời điểm này. Các Mo Bros bắt đầu nhận biết các bộ ria mép có thể được hình thành huy hiệu Movember, qua những cuộc trò chuyện họ nhận ra rằng sẽ rất hiệu quả nếu biến mỗi Bro Mo vào một chương trình quảng cáo đi bộ cho sức khỏe nam giới, cùng lúc cho phép họ thường xuyên gặp nhau để có một nụ cười với bạn bè.

Chiến dịch Movember tiếp tục phát triển và trong năm 2006, Quỹ đã được ở một vị trí quan trọng thứ hai của sức khỏe nam giới cần được chú ý đến tại Úc.

Từ năm 2004, Quỹ từ thiện Movember đã nâng cao nhận thức và kinh phí của các vấn đề sức khỏe nam giới, chẳng hạn như ung thư tuyến tiền liệt và trầm cảm ở Úc và New Zealand. Trong năm 2007, sự kiện này được đưa ra ở Ireland, Canada, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Anh, Israel, Nam Phi, Đài Loan và Hoa Kỳ. Nó đã lan từ Úc đến Nam Phi, châu Âu và Bắc Mỹ. Như năm 2011 người Canada là những người đóng góp lớn nhất cho các tổ chức từ thiện Movember của bất kỳ quốc gia nào.

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4ALL.vn

 

 

Top Interesting Facts about United Kingdom 1 – Những điều thú vị về nước Anh (Phần 1)

Không chỉ nổi tiếng với Big Ben, Buckingham Palace và rất nhiều những công trình kiến trúc nổi tiếng.

Không chỉ có một lịch sử lâu đời, một hoàng gia quyền uy và danh tiếng bậc nhất thế giới.

Không chỉ là một xứ sở sương mù lạnh giá và có phần buồn tẻ trong suy nghĩ của nhiều người chưa tới nơi đây.

Anh Quốc còn ẩn chứa nhiều điều thú vị hơn thế nữa.

Đã bao giờ bạn nghĩ rằng nước Anh là một đất nước thật kì quặc nhưng cũng vô cùng hấp dẫn?

Bạn sẽ hoàn toàn tin vào điều đó sau khi cùng English4ALL tới ga British Way để cùng khám phá những bí mật thú vị về nước Anh. All aboard!

Uống bia rượu tại các quán Bar ở Anh

Pub

Ở Anh, trong quán rượu hay quán bar, bạn có thể uống bao nhiêu tùy thích nhưng bạn không được phép uống say (get drunk) và ở Scotland sẽ là phạm pháp nếu bạn chẳng những uống say mà còn sở hữu 1 con bò (cow).

The “Tube” (Tàu điện ngầm của London)

London Tube
Trong hệ thống tàu điện ngầm ở London, đoạn từ ga Leicester Square đến Convent Garden là tuyến tàu phổ biến nhất với khách du lịch mặc dù đoạn đường này đi bộ còn nhanh hơn đi bằng tàu điện ngầm.

Hệ thống tàu điện ngầm của London, mặc dù là hệ thống đầu tiên và lớn nhất thế giới, vẫn được coi là hệ thống đắt nhất và ít độ tin cậy nhất.

409 thang cuốn (escalators) trong hệ thống ga điện ngầm London mỗi tuần di chuyển đoạn đường tương đương bằng 7 chuyến đi vòng quanh thế giới.

 

Hoàng gia Anh

British-Royal-Family
Không có gì bất ngờ khi sự việc được coi là kỳ lạ nhất trong lịch sử là việc Nữ hoàng Berengaria của Navarre, người đã cưới Vua Richard của nước Anh, lại chưa bao giờ đặt chân đến nước Anh.

Trên thế giới, lâu đài Windsor được coi là nơi ở lâu đời nhất của một triều đại phong kiến mà vẫn còn đang được sử dụng để ở, và cung điện Buckingham được xây dựng năm 1702 trên mãnh đất vốn từng là một nhà thổ (brothel) khét tiếng.

Người ta cũng tin rằng lâu đài Windsor bị ma ám (haunted), những hồn ma bao gồm Vua Henry VIII, Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất, Vua George và Charles đệ nhất.

Nữ hoàng Anh, người từng nắm lĩnh quyền lực trên khắp thế giới, mặc dù rất uy nghi và có danh tiếng vẻ vang, vẫn không được phép vào Viện Thứ Dân của Nghị Viện Anh (House of Common) , chỉ đơn giản vì bà không phải là nghị sỹ – thành viên của Viện này.

Vào thời trung cổ ở England, kể cả động vật cũng bị kiện ra tòa án và bị trừng phạt vì những tổn thất mà chúng gây ra cho con người và tài sản của họ.

Uống trà

Afternoon Tea
Người Anh là những con nghiện uống trà (tea addicts). Một người Anh uống nhiều trà hơn bất cứ người dân của bất kỳ đất nước nào (nhiều hơn 20 lần so với người Mỹ).

 

Thủ đô London

London

London được biết đến là thành phố có sự đa dạng về văn hóa chủng tộc nhất (high cultural diversity) trên thế giới, điều này được chứng minh bằng thực tế rằng 25% dân số London không phải được sinh ra ở Anh.
Một trong những nhà hát nổi tiếng nhất nước Anh là Nhà hát Hoàng gia Bristol (The theatre Royal Bristol) vẫn trình diễn vở “Cats” (Những chú mèo) từ năm 1766!

Bạn có biết rằng London đã từng có bao nhiêu cái tên không? Nó từng được gọi là Londonium trong thời La mã xâm lược, là Ludenwic vào thời Saxon, và là Ludenburg vào thời Alfred Đại đế.

Con mắt Thiên Niên Kỷ – London Eye là vòng quay quan sát cao nhất thế giới tại thời điểm nó được xây dựng năm 1999, mỗi vòng quay (rotation) của nó là 30 phút.

Trong trận Đại Hỏa hoạn ở London (Great Fire of London) năm 1666, thành phố đã bị tàn phá hoàn toàn và phải mất rất lâu để xây dựng lại, nhưng số thương vong chỉ là 8 người!

Số đồ cổ di tích trong viện Bảo tàng Anh Quốc (British Museum) chứa đựng 2 triệu năm nền văn minh thế giới.

Chắc hẳn bạn đã từng nghe đến bài hát ru “London bridge is falling down” (Cây cầu London đang sập). Bạn có biết rằng bài ca đó có từ cách đây hơn 1000 năm? Người Saxonđã phá hủy cây cầu London bằng tàu và dây thừng để kéo đổ nó xuống. Người ta cho rằng bài ca bắt nguồn từ đó. Tuy nhiên, hiện nay, thì người và xe vẫn chạy rầm rầm qua cầu London (London Bridge) mỗi ngày.

Bạn có biết rằng dòng sông Thames chảy dọc London có hơn 200 cây cầu (bridge) bắc qua và 20 cống ngầm (tunnel) ?

 

Big Ben không phải là một chiếc đồng hồ

London

Trái ngược với suy nghĩ phổ biến rằng Big Ben là tên chiếc đồng hồ nổi tiếng nhất thế giới, nó thực tế là tên của quả chuông lớn nhất nặng 13 tấn. Chiếc tháp của đồng hồ có tên là Tháp Elizabeth (Elizabeth Tower) .

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4all.vn

 

Why do British wear poppies every November? Vì sao người Anh lại cài hoa anh túc lên ngực áo vào tháng 11?

Đến với nước Anh những ngày đầu tháng 11, nhiều người chắc hẳn sẽ không khỏi thắc mắc khi thấy hầu như mọi người ai cũng đều cài một bông hoa đỏ bằng giấy lên ngực áo? Phải chăng văn hoá Anh cũng có Lễ Vu Lan giống như văn hoá Việt? Nhưng tại sao lại không thấy đeo những bông hoa trắng? Bông hoa nhỏ này là một loại phù hiệu chung hay còn mang ý nghĩa gì? English4ALL hôm nay sẽ cùng các bạn tìm hiểu câu chuyện về nét văn hoá này của nước Anh tại ga British Way nhé! All aboard.

Ngày 11/11 là ngày gì?

Năm 1918, sau bốn năm dài chiến chinh và đẫm máu, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (The First World War) đã chắm dứt vào ngày 11/11/1918. Tiếng súng đã ngừng hẳn váo lúc 11h ngày 11/11/1918. Hàng triệu người đã chết và vị thương trong cuộc chiến này, hoà bình đã lập lại nhưng rất nhiều chàng trai đã vĩnh viễn không thể trở về nhà. Một năm sau, 1919,ngày 11 tháng 11 được chọn làm một ngày đặc biệt để mọi người hướng về những người đã ngã xuống. Từ đó, cứ đến 11h ngày 11 tháng 11, dù là ai, là thủ tướng đang họp ở nghị viện, là sinh viên đang học ở giảng đường, hay là công nhân đang lao động trên công trường mọi người trên khắp nước Anh sẽ đều dành hai phút im lặng để tưởng niệm những người đã khuất.

Lúc đầu, ngày 11/11 được gọi là ngày Armistice Day – Ngày Đình Chiến, bởi vì từ “armistice” (đình chiến) diễn tả đúng tính chất sự kiện, nhưng dần dần, người ta thường gọi ngày này là ngày Remembrance Day – Ngày Tưởng Niệm hay Poppy Day- Ngày Hoa Anh Túc hơn. Một truyền thống đã có gần 100 năm để mọi người ghi nhớ ngày này đó là cả nước sẽ cùng đeo một bông hoa anh túc đỏ (poppies) lên ngực áo từ cuối tháng 10 cho tới tháng 11.

Các nhà lãnh đạo Anh trong lễ tưởng niệm ngày 11/11
Các nhà lãnh đạo Anh trong lễ tưởng niệm ngày 11/11

Vì sao lại là hoa anh túc?

Một vòng hoa tưởng niệm kết bằng những bông hoa anh túc giấy trong ngày Remembrance Day ở Anh
Một vòng hoa tưởng niệm kết bằng những bông hoa anh túc giấy trong ngày Remembrance Day ở Anh

Ở Vietnam, cây anh túc nổi tiếng là nguyên liệu để sản xuất ra thuốc phiện và được bài trừ mạnh. Tuy nhiên, với người dân Anh và thế giới nó lại là 1 biểu tượng thiêng liêng. Tại sao không phải là hoa hồng, hoa phong lan, hay vô số những loài hoa rất đẹp khác, mà lại là hoa anh túc (poppey). Bởi vì chỉ có duy nhất loài hoa dại này mọc được ở chiến trường Gallipoli, nơi đã diễn ra cuộc chiến khốc liệt nhất vào năm 1915. Điều này có thể bắt gặp trong In Flanders fields một trong những bài thơ hay nhất của Thế Chiến lần thứ nhất của nhà thơ, đồng thời cũng là trung tá (Lieutenant Colonel) quân đội Canada John McCrae

In Flanders fields the poppies blow
      Between the crosses, row on row,
   That mark our place; and in the sky
   The larks, still bravely singing, fly
Scarce heard amid the guns below.

We are the Dead. Short days ago
We lived, felt dawn, saw sunset glow,
   Loved and were loved, and now we lie
         In Flanders fields

Take up our quarrel with the foe:
To you from failing hands we throw
   The torch; be yours to hold it high.
   If ye break faith with us who die
We shall not sleep, though poppies grow
         In Flanders fields.

Chính bài thơ này đã khơi nguồn cảm hứng cho Moina Michael- một nữ nhà thơ người Mỹ nghĩ đến việc sử dụng hoa anh túc để tưởng niệm những người đã chết. Bà cũng đã viết một bài thơ đáp lại rất hay vào năm 1918, We Shall Keep the Faith

Oh! you who sleep in Flanders Fields,
Sleep sweet – to rise anew!
We caught the torch you threw
And holding high, we keep the Faith
With All who died.

We cherish, too, the poppy red
That grows on fields where valor led;
It seems to signal to the skies
That blood of heroes never dies,
But lends a lustre to the red
Of the flower that blooms above the dead
In Flanders Fields.

And now the Torch and Poppy Red
We wear in honor of our dead.
Fear not that ye have died for naught;
We’ll teach the lesson that ye wrought
In Flanders Fields.

Với những thuộc tính rất đặc biệt: là cây duy nhất mọc dễ dàng trên chiến trường lúc đó, vòng đời cũng rất ngắn – cũng giống như sự sống của những người lính trẻ. Họ sinh ra, cống hiến và chết đi trong 1 thời gian ngắn.

Từ đó, các tổ chức từ thiện ở Anh, đặc biệt là The Royal British Legion (Lữ đoàn Hoàng gia Anh) cứ gần đến tháng 11 lại tổ chức những hoạt động từ thiện, kêu gọi quyên góp để gây quỹ tri ân các cựu chiến binh và gia đình của họ. Mỗi người quyên góp sẽ được tặng một bông hoa anh túc giấy để cài lên ngực áo. Điều đó dần trở thành một truyền thống tốt đẹp của người dân Anh.

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4all.vn

10 Interesting Facts and Figures about Oxford University You May Not Have Known – 10 điều thú vị về trường Đại học Oxford có thể bạn chưa biết

Nằm ở ngay giữa London và thành phố Gloucester, Oxford, nơi có những lớp học từ những năm 1098, là trường đại học cổ nhất trong thế giới các nước nói tiếng Anh và là đại học cổ thứ hai còn tiếp tục hoạt động trên thế giới, chỉ sau trường University of Bologna của Ý. Ngoài bộ từ điển Oxford nổi tiếng khắp thế giới mà người học tiếng Anh nào cũng biết, ngoài những giải Nobel và tên tuổi các nhà khoa học, các chính khách nổi tiếng thế giới xuất thân từ ngôi trường này, bạn còn biết gì về Oxford- ngôi sao sáng nhất của giáo dục đại học Anh và thế giới. Tại ga British Way thứ sáu tuần này, English4ALL xin giới thiệu tới các bạn một số điều có thể bạn chưa biết về trường đại học cổ kính và danh tiếng bậc nhất Vương Quốc Anh nhé.

 Oxford

Số lượng sinh viên

Trường đại học Oxford có khoảng 22.000 sinh viên trong đó 11.772 sinh viên đại học và 9850 sinh viên sau đại học. Sinh viên sau đại học chiếm 45% tổng số sinh viên và 62% số này đến từ nước ngoài.

Là một trường tư

Oxford 2

Mặc dù là một trong những cơ sở giáo dục trọng yếu và hàng đầu tại Anh, Oxford là một trường đại học tư (private university). Học phí trung bình hàng năm của sinh viên đại học dựa trên một thang bậc tính theo thu nhập, nhưng sinh viên Anh và Châu Âu (EU) thường phải trả tới £9000/năm (khoảng $14.000), trong khi sinh viên từ các nơi khác của thế giới đến học sẽ phải trả từ £14.415 cho tới £21.220 (tuỳ khoá học)cộng với £6724 phí hàng năm.

Nguồn gốc của từ Snobby

Từ snob (kẻ trưởng giả học làm sang, kẻ đua đòi) trong tiếng Anh đích thực là bắt nguồn từ Oxford. Từ này đầu tiên là viết tắt của cụm từ Latin “sine nobilitate” nghĩa là “không có địa vị

Phong tục đón xuân

Vào lúc 6.00h, ngày 1 tháng 5 hàng năm, một dàn đồng ca của trường Magdalen (Magdalen College –trường thành viên của Đại học Oxford) sẽ hát bằng tiếng Latin từ toà tháp Magdalen (Magdalen Tower) để chào đón mùa xuân bắt đầu. Đám đông công chúng sẽ tập hợp để lắng nghe và thưởng thức những màn nhảy múa ngay sau đó. Và đặc biệt là tất cả các quán pub sẽ đều mở cửa vào 6h sáng ngày hôm đó để phục vụ bia và bữa sáng cho mọi người.

Tục cấm lửa

Bên trong thư viện Bodleian cổ kính của trường đại học Oxford
Bên trong thư viện Bodleian cổ kính của trường đại học Oxford

Thư viện Bodleian là thư viện nghiên cứu chính của trường đại học Oxford. Quy mô bộ sưu tập của thư viện này chỉ đứng thứ hai sau Thư viện Anh Quốc với hơn 11 triệu bản sách. Luật của Ai Len cũng yêu cầu thư viện lưu trữ một bản của mỗi cuốn sách được xuất bản tại Cộng hoà Ai Len. Điều thú vị nhất đó là trước khi một sinh viên muốn vào thư viện với tư cách là một người đọc mới (a new reader), họ phải đồng ý tuyên thệ một cách trang trọng rằng sẽ không mang lấy bất kỳ một đoạn văn bản nào của thư viện, không được mang lửa, đốt lửa hay hút thuốc trong thư viện. Ngày xưa lời tuyên thệ (declaration) này được đọc bằng miệng bằng tiếng Latin, hiện nay thì thay thế bằng việc ký vào một bức thư.

Không dành cho nữ giới

Cho tới tận năm 1878, Oxford vẫn là cấm địa đối với phái nữ. Mặc dù tới năm 1884, nhà trường đã cho phụ nữ tham dự các kỳ thi, tuy nhiên họ không được phép nhận bằng cho tới tận năm 1920. Chỉ tới năm 1959, điều này mới được dỡ bỏ, và đến 1974, Oxford chính thức trở thành trường học chung cho cả hai giới (co-education)

Khoai tây đã biến mất

Cánh cửa No Peel này đã có từ hàng trăm năm nay.
Cánh cửa No Peel này đã có từ hàng trăm năm nay.

Đã từng có vô số ý tưởng điên rồ và những phương cách chữa trị lạ lùng để đẩy lùi Cái Chết Đen (Black Death – đại dịch kinh hoàng trong lịch sử Châu Âu thế kỉ 14). Vào thế kỉ 16, các bác sỹ của trường Christ Church College đã kê đơn (prescribed) vỏ khoai tây như một biện pháp phòng ngừa. Sau khi ăn vỏ khoai tây (potato peels) vào bữa sáng, bữa trưa, và bữa tối mỗi ngày, sinh viên của trường đã nổi loạn (revolt). Một bức hoạ phản đối chế độ ăn uống này đã được đốt lên một trong những cửa chính của trường, viết rất to từ “No Peel” (Không vỏ khoai nữa!)

Harry Potter, tên tuổi mới của trường Christ Church

Oxford Stairs

Những bậc cầu thang Great Hall tại trường Christ Church College đã khơi nguồn cảm hứng và sau này được sử dụng như cầu thang dẫn vào đại giảng đường của Hogwarts (Hogwarts’ Great Hall) trong truyện và phim Harry Potter

“This, That, and the Other”

Oxford Advanced Learner Dictionary
Từ điển Oxford là ấn bản nổi tiếng toàn cầu của nhà xuất bản Oxford

Bạn có biết dấu phẩy trong bất kỳ cách liệt kê nào từ ba vật trở lên như (A, B, và C) theo như văn phong tiếng Anh chuẩn được gọi là gì không? Đó là dấu phẩy Oxford (Oxford comma) bắt nguồn từ nhà xuất bản Oxford (Oxford University Press) nơi đã tạo ra chuẩn này.

Huyền thoại về nàng Frideswide

Hình ảnh về nàng Frideswide trong một tranh khảm kính tại nhà thờ
Hình ảnh về nàng Frideswide trong một tranh khảm kính tại nhà thờ

Huyền thoại về việc hình thành nên nhà trường kể rằng Frideswide là một nàng công chúa (a princess) muốn hiến dâng đời mình cho giáo hội (the Church). Tuy nhiên, một vị vua có ý định cưỡng hôn nàng, và nàng trốn đến Oxford. Nhà vua đuổi theo Frideswide, nhưng khi vào đến thành phố, tự nhiên ông bị mù. Ông cầu xin công chúa hãy tha thứ cho ông và giải phóng nàng khỏi hôn ước (betrothal) đổi lại hãy làm cho mắt ông sáng trở lại. Sau này, Frideswide thành lập ra một nữ tu viện (nunnery) và từ đó những trường đại học đầu tiên đã mọc lên xung quanh đó để làm chỗ trú chân cho các học giả của tu viện (monastic scholars).

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4all.vn

10 Halloween facts you might not know. 10 điều có thể bạn chưa biết về lễ Halloween.

Chỉ còn chưa đầy một tuần nữa, cộng đồng các nước nói tiếng Anh (Mỹ – Anh – Ai Len – Úc….) sẽ đón chờ một ngày lễ vô cùng thú vị trong năm: Halloween (31/10). Nếu như người Việt có Rằm Trung thu là dịp truyền thống để trẻ em vui chơi, và Rằm tháng Bảy là dịp để tưởng nhớ tới những người đã khuất…….thì Halloween có thể coi như một lễ hội chung tương tự với thế giới phương Tây. Có lẽ còn nhiều điều hấp dẫn về ngày lễ này mà bạn vẫn chưa biết hết. English4ALL sẽ cùng bạn khám phá thêm về Halloween tại ga British Way ngày hôm nay nhé. All aboard!

Nguồn gốc từ Halloween

1. Bạn có biết từ Halloween đến từ đâu không? Halloween chính là viết tắt (shortening) của cụm từ “All Hallows’s Evening” (Đêm các Thánh). Halloween còn có vài tên gọi khác như: All Hallows Eve, The Feast of the Dead, Samhain, All Saints Eve……

2. Halloween bắt nguồn từ một lễ hội Samhaim của người Celtic ở Ai Len (Ireland) có từ 2000 năm trước, để ăn mừng kết thúc một vụ mùa (harvest season). Truyền thống này lan truyền đến những vùng khác của thế giới sau khi người Ai Len (Irish) di cư (immigrated) đi khắp nơi vì nạn đói mất mùa khoai tây (tomato famine)

Halloween 4

3. Những con dơi (bats) cũng đến từ lễ hội Samhain bởi vì người Ai Len thường đốt lửa (bonfires) để xua đuổi ma quỷ (evil spirits), điều này sẽ hấp dẫn rất nhiều côn trùng (insects) đến, và lũ dơi cũng kéo tới để kiếm ăn, dần dần chúng trở thành một trong những biểu tượng gắn liền với Halloween.

4. Người ta tin rằng ranh giới (boundaries) giữa thế giới của người sống và người chết sẽ trở nên mong manh nhất vào ngày 31 tháng 10, và người chết có thể trở lại trần gian. Chính vì thế để tránh bị nhận ra là người, người ta thường đeo mặt nạ (masks) và hoá trang (costumes)

5. Có một điều mê tín (superstition) rằng các hồn ma (ghost) sẽ cải trang (disguise) thành người và đi gõ cửa xin tiền và đồ ăn. Nếu bạn từ chối, bạn sẽ có thể trọc giận các linh hồn và bị ám.

Children Trick-or-treating6. Chính từ điều mê tín trên đã hình thành nên trò “Trick or Treat” (Cho kẹo hay bị ghẹo) của trẻ con trong ngày lễ Halloween. Bọn trẻ sẽ đến từng nhà trong những bộ trang phục hoá trang hô “Trick or Treat” để xin kẹo bánh, trái cây, nếu chủ nhà từ chối tiếp đón (treat) , chúng sẽ bày trò phá phách, chọc giận (trick) .

7. Màu truyền thống của ngày lễ Halloween là màu da cam (Orange) và màu đen (Black). Màu cam là biểu tượng gắn liền với mùa thu, trong khi màu đen lại là tương trưng cho cái chết, sự kết thúc của mùa hè, và bóng tối.

Halloween 5

8.Tập tục khắc những quả bí ngô (pumpkins) thành hình những chiếc đèn Jack-o’-lantern bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian của người Celtic. Một chàng nông dân hay say xỉn tên là Jack lúc còn sống thì keo kiệt, bủn xỉn, không bố thí cho ai một xu nào, lại hay trêu đùa (tricked) ma quỷ và cuối cùng bằng việc cả thiên đường (heaven) lẫn địa ngục (hell) đều không cho anh ta vào. Bị mắc kẹt ở chốn u minh (limbo), Jack đã làm một cái đèn lồng (lantern) từ một củ cải (turnip) và cho một ít than hồng vào trong để sưởi ấm và có ánh sáng tìm đường đi. Dần dần, người Celtic khắc những gương mặt sợ hãi vào chiếc đèn lồng Jack-o’-lantern đặt bên ngoài nhà trong dịp Halloween để xua đuổi linh hồn ma quỷ đi.

Turnip lantern9. Jack-o’-lanterns nguyên gốc được làm bằng củ cải nhưng khi nạn đói vì mất mùa khoai tây 1846 đã buộc những gia đình người Ai Len phải tha phương cầu thực sang miền đất mới ở Bắc Mỹ thì củ cải được thay thế bằng quả bí ngô như ngày nay. 99% bí ngô được bán trong những ngày này chỉ dùng để làm đèn lồng.

Halloween 6

10. Hình ảnh phù thuỷ (witch) cưỡi chỗi (broomstick) xuất phát từ thực tế là ngày xưa những bà lão mà bị buộc tội là phù thuỷ thường rất nghèo và không có tiền mua nổi ngựa, họ thường đi bộ và chống gậy, dần dần thế bằng hình ảnh cây chổi. Những con mèo đen, thực tế là những con mèo hoang hay đi lang thang theo những bà lão phù thuỷ, người ta coi chúng như những kẻ giúp việc cho phù thuỷ. Riêng ở Anh (England), gặp mèo trắng mới bị coi là xui, mèo đen lại là biểu tương may mắn.

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4ALL.vn

God Save The Queen – The British National Anthem. Đôi điều về quốc ca Anh: God Save The Queen

Quốc ca luôn luôn là biểu trưng sống động bằng âm nhạc cho niềm tự hào của mỗi dân tộc. Nếu như vào mùa thu tháng Tám năm 1945, người Việt Nam lần đầu tiên được nghe giai điệu hào hùng, mạnh mẽ của “Tiến Quân Ca” của nhạc sỹ Văn Cao và sau này trở thành Quốc ca Việt Nam thì Vương Quốc lại tự hào sở hữu bài hát quốc ca cổ nhất thế giới “God Save The Queen”. Thậm chí một số quốc gia khác còn học theo giai điệu của bài hát này để làm quốc ca riêng cho mình. English4ALL Thứ Sáu với ga British Way xin giới thiệu một đôi nét về bài hát quốc ca nổi tiếng thế giới này của người Anh. All aboard!

https://www.youtube.com/watch?v=5C6ON9P6T9s

 

Lịch sử ra đời Quốc ca Vương Quốc Anh

Quốc ca của Vương Quốc Anh (British National Anthem) có từ thế kỉ 18. ‘God Save The King’ là một bài hát yêu nước (a patriotic song) được công diễn lần đầu tiên (first publicly performed) tại London vào năm 1745 sau này chính thức trở thành quốc ca vào đầu thế kỉ 19.

Tác giả của ca từ và giai điệu (tune) hoàn toàn ẩn danh (anonymous) và bắt nguồn từ thế kỉ 17.

Tháng 9 năm 1745, người thừa kế vương vị của Vương Quốc Anh (the British Throne), hoàng tử Charles Edward Stuart, đã đánh bại đội quân của Vua George II ở Prestonpans, gần thành phố Edinburgh ngày nay.

Một bầu không khí ái quốc sôi nổi sau tin tức từ trận Prestonpans đã truyền về London. Người đứng đầu dàn nhạc ở Nhà hát Hoàng gia (Theatre Royal), Drury Lane đã sắp xếp biểu diễn bài “God Save The King” sau một vở kịch (a play). Đó là một thành công vang dội và được lặp đi lặp lại hàng đêm .

Dần dần các nhà hát khác cũng học theo cách này, và truyền thống sử dụng bài hát này để chào mừng vua/nữ hoàng (monarchs) khi họ tới các điểm giải trí của công chúng cũng được hình thành.

Những ca từ ngày nay vẫn được sử dụng có từ năm 1745 chỉ thay từ King thành Queen (nữ hoàng) cho phù hợp. Trong những dịp chính thức, người ta thường chỉ hát khổ đầu tiên.

Lời bài hát Quốc ca Vương Quốc Anh như sau:

God save our gracious Queen!

Long live our noble Queen!

God save the Queen!

Send her victorious,

Happy and glorious,

Long to reign over us,

God save the Queen.

 

Thy choicest gifts in store

On her be pleased to pour,

Long may she reign.

May she defend our laws,

And ever give us cause,

To sing with heart and voice,

God save the Queen.

Giai điệu quốc ca Anh còn được sử dụng ở các nước khác. Các du khách châu Âu tới Anh vào thế kỉ 18 nhận thấy được lợi ích của việc có một bài hát chung cho quốc gia như một biểu tượng âm nhạc được ghi nhận (a recognised musical symbol). Tổng cộng, có tới 140 nhạc sĩ (composers) bao gồm các những tên tuổi tài danh như Beethoven, Haydn và Brahms đều đã sử dụng giai điệu này trong các sáng tác của họ.

Quốc ca Anh được hát vào những dịp nào?

(Bài hát God Save the Queen được hát trong lễ mừng sinh nhật lần thứ 85

của Nữ hoàng Anh Elizabeth tại Tu Viện Westminter)

Bài hát Quốc ca này được cử hành bất cứ khi nào nữ hoàng Anh hiện diện trước công chúng (make a public appearance) và được phát trên đài BBC( British Broadcasting Corporation) mỗi đêm trước khi kết thúc chương trình.

“God Save The Queen” cũng được hát vào cuối tất cả các nghi lễ trong ngày Tưởng Niệm (Remembrance Day – 11/11). Lễ nhận huy chương (Medal ceremonies)của đội tuyển Vương Quốc Anh (Great Britain Team) – đại diện cho tất cả các nước. Trong các trận đấu bóng đá của Anh (England) và Bắc Ai Len (Northern Ireland); riêng Scotland và xứ Wales sử dụng quốc ca riêng (Scotland có bài Flower of Scotland và người xứ Wales có bài Land of my Fathers – Hen Wlad Fy Nhadau).

 

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4all.vn

What do you have for Sunday lunch? Of course, Sunday Roast! The Sunday Roast- hương vị đặc trưng của ẩm thực Anh.

Dăm ba lịch hẹn, vài cái deadline đã đốt cháy bạn trong một tuần làm việc. Bạn sẽ ăn món gì cuối tuần để có thể nạp lại năng lượng tràn đầy cho một tuần mới đây? Nếu ở Hanoi, tôi sẽ rất thích ngồi thưởng thích món bánh tôm Hồ Tây hay phở Lý Quốc Sư, còn nếu bạn ở Anh thì sao? Hãy nạp lại năng lượng theo cách của người Anh với “The Sunday roast” nhé. Món ăn này có gì mà đặc biệt đến vậy? English4ALL muốn cùng bạn một lần nữa du ngoạn vào khu vườn ẩm thực ít cây thưa lá của nước Anh để tìm hiểu về một trong những món ngon ít ỏi trong cuốn sách nấu ăn nổi tiếng mỏng nhất thế giới của xứ sương mù. Người ta thường nói thế giới sẽ là địa ngục nếu như người Anh là đầu bếp, tuy nhiên, người nói ra điều đó có lẽ sẽ nên nghĩ lại nếu một lần thử “The Sunday Roast”. Thật đấy! All aboard!

Sunday Roast

The Sunday Roast là một bữa ăn chính theo truyền thống ở Anh và Ai Len thường vào các ngày Chủ Nhật, tuy nhiên có thể ăn vào bất cứ ngày nào trong ngày, bao gồm thịt bỏ lò (roasted meat), khoai tây bỏ lò (roasted potato) hoặc khoai tây nghiền (mashed potato) và các đồ ăn kèm (accompaniments) như là bánh Yorkshire pudding (món bánh trứng sữa nướng bằng mỡ tiết từ thịt. Bánh giòn xốp, ăn khi mới ra lò nóng hổi.) hay apple sauce (Táo nấu mềm với quế và chanh rồi nghiền nhuyễn), rau củ, và sốt (gravy). Người ta cũng gọi là Sunday dinner, Sunday lunch, Roast dinner, và Sunday joint. Bữa ăn này tương đương với một bữa ăn truyền thống Giáng Sinh (a traditional Christmas dinner) nhưng nhỏ hơn một chút. Không chỉ phổ biến ở Anh, bữa ăn truyền thống vào tối ngày Chủ Nhật này còn ảnh hưởng lớn đến văn hoá ẩm thực (food culture) của nhiều nước, đặc biệt là các nước có dân số gốc đến từ Anh và Ai Len.

Tập tục ăn một bữa lớn sau khi hết lễ ở nhà thờ (church services) khá phổ biến ở hầu khắp Châu Âu và các quốc gia khác theo Thiên chúa giáo. Vào ngày Chủ Nhật, tất cả các loại thịt và các sản phẩm từ sữa (dairy product) đều có thể được phép ăn, không giống như những ngày thứ Sáu khi mà ở nhiều nơi các tín đồ Công giáo kiêng thịt (abstain from meat) chỉ ăn cá. Tương tự như vậy, người Công giáo Anh cũng có truyền thống nhịn ăn trước lễ nhà thờ ngày Chủ nhật, và sau đó ăn một bữa lớn hơn để kết thúc việc chay tịnh (break the fast)

Có hai ý kiến về nguồn gốc của bữa ăn Sunday Roast hiện đại. Một ý kiến cho rằng, trong thời kỳ cách mạng công nghiệp (industrial revolution), các gia đình ở vùng Yorkshire để một tảng thịt vào lò trước khi đi nhà thờ sáng Chủ Nhật, đến khi đi lễ xong ra về là vừa kịp ăn trưa. Ý kiến thứ hai cho rằng, bữa ăn Sunday Roast là có từ thời trung cổ (medieval times) khi các nông nô (serfs) phải hầu hạ giới địa chủ (the squire) sáu ngày một tuần. Và vào ngày chủ nhật, sau lễ nhà thờ, các nông nô sẽ tụ tập trên một cánh đồng và đấu vật với nhau để tranh phần thưởng (reward) là một tảng thịt bò nướng

Sunday Roast 2

Các loại thịt chính thường được dùng trong Sunday roast là thịt bò, gà, cừu, và heo, mặc dù đôi khi theo mùa cũng có cả thịt vịt, ngỗng (goose), gà lôi (turkey) và thậm chí cả thịt chim thú nữa.

Sunday roasts được chuẩn bị với rất nhiều loại rau củ luộc (boiled), hấp (steamed) hoặc bỏ lò (roasted). Tuỳ theo mùa và tuỳ theo vùng, những sẽ luôn có khoai tây bỏ lò, với nước mỡ chảy ra từ thịt (meat dripping) hoặc dầu thực vật (vegetable oil) và sốt gravy làm từ các loại nước thịt . Khoai tây có thể bỏ xung quang tảng thịt, ngấm các loại nước thịt và mỡ. Tuy nhiên, nhiều đầu bếp lại ưa thích nấu khoai tây và bánh Yorkshire Pudding trong một cái lò nóng hơn lò dùng để nướng thịt, và lấy thịt ra khỏi lò trước và sau đó giữ nóng.

Một số các gia vị kèm theo nữa có lẽ phải tùy vào từng loại thịt nướng của Anh. Chẳng hạn như món thịt cừu nướng được ăn kèm với sốt bạc hà. Đối với các nước láng giềng Châu Âu, món thịt cừu nướng còn có thể kết hợp với một loại hỗn hợp gia vị của bạc hà cắt khúc, đường và giấm. Dù thế nào đi nữa thì đó cũng chính là sự hòa hợp các hương vị chua chua, ngọt ngọt làm cho món ăn đậm chất Anh cổ điển thêm hấp dẫn và rất dễ ăn.

Nếu là món thịt heo nướng của Anh thì nó được trang trí và ăn kèm với một loại sốt và thịt bằm nhồi hành tây. Món thịt nhồi này thường được đặt ở giữa cuộn thịt heo hay chỉ đơn giản được bày ra trên đĩa thịt nướng. Da heo được làm sạch với muối, rọc caro tẩm gia vị rồi nướng thật giòn được bày riêng trên dĩa và được phủ lên một lớp sốt táo cua ngọt làm cho món ăn thêm cầu kỳ, hấp dẫn.

 Với món thịt gà nướng của người Anh, nó được nướng với nhân nhồi mặn mà. Cũng giống như món thịt lợn nướng nhưng cũng có thể thêm vào các gia vị như hành tây, mùi tây, húng tây. Kèm theo là sốt Redcurrant – một phụ gia truyền thống không thể thiếu của món thịt gà nướng.

Cuối cùng món nướng chính và phổ biến nhất của người Anh là món thịt bò nướng Roast Beef. Đây là món nướng ưa thích từ bao đời nay của người Anh.. Thật bất ngờ khi món ăn quý tộc này đã từng có tên trong “ The Roast Beef of Old England”, một bản nhạc thể loại ballad nói về truyền thống yêu nước của Anh, được chính nhà soạn kịch Henry Fielding viết trong vở kịch The Grub – Street Opera được trình diễn đầu tiên vào năm 1731.

Các loại rau ăn kèm trong bữa đồ nướng này bao gồm su hào tây (swede), cải bắp luộc hoặc hấp (cabbage), súp lơ xanh (broccoli), đậu xanh (green beans), cà rốt, và đỗ (pea).

sunday roast (1)

Những đồ ăn còn sót lại (left-over food) từ ngày Chủ nhật thường được chuyển thành bữa ăn thường trong các ngày còn lại của tuần. Ví dụ, thịt có thể làm nhân bánh sandwich (sandwich fillings).

Ở Anh, nhiều quán pub luôn có Sunday Roast trong menu ngày Chủ nhật với nhiều loại thịt khác nhau và có cả lựa chọn cho người ăn chay.

Món thịt nướng của Anh – English Sunday Roast là một trong những món ngon ở châu Âu mà bất kỳ khách du nào cũng nên thưởng thức qua. Món ăn này không chỉ đơn thuần là món ăn dành cho ngày chủ nhật ở Anh hay các nước láng giềng khác ở châu Âu, mà còn là một phần của bản sắc dân tộc văn hóa Anh mà du khách nên trải nghiệm khám phá, để cảm hết sự thú vị tuyệt vời của nó.

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4ALL.vn

What should I do or not do when I am eating in Britain? Phép tắc trong ăn uống của người Anh (Eating Etiquette)

Học một ngôn ngữ không chỉ là học vài câu nói “Hello, How are you?… mà thực sự là cần phải thu nhận cả một nền văn hoá mới, là “học ăn, học nói, học gói, học mở” như người Việt chúng ta thường nói. Nếu một ngày bạn có mặt ở Anh hoặc dùng bữa với người Anh, bạn có cảm thấy tự tin với phong cách ăn uống của mình không? “Nhập gia” phải “tuỳ tục”, và hôm nay chuyến tàu English4ALL tới ga British Way xin giới thiệu với các bạn một số “tục” về phép tắc khi ăn uống của người Anh (British Eating Etiquette), hi vọng sẽ giúp các bạn thêm phần hiểu biết và luôn luôn tự tin “nhập gia” thành công trong bữa tối với người Anh. All aboard!

 

Những điều bạn nên làm (Should-do)

Người Anh thường rất chú ý tới phong cách ăn uống tại bàn ăn (table manners). Thậm chí ngay cả trẻ em cũng được dạy để ăn sao cho đúng cách với dao và dĩa (knife and fork). Hầu hết đồ ăn đều sử dụng dao dĩa, ngoại trừ bánh sandwich, khoai tây chiên giòn (crisps), bắp ngô (corn on the cob) và trái cây.

Nếu bạn không thể ăn được một loại thức ăn nào đó hay có nhu cầu gì đó đặc biệt (special needs), hãy thông báo cho người chủ nhà/người tổ chức bữa tiệc trước vài ngày.

Nếu bạn là khách, phép lịch sự là chờ đợi chủ nhà bắt đầu ăn trước hoặc ra hiệu cho bạn bắt đầu ăn. Điều này thể hiện sự tôn trọng với chủ nhà.

Luôn phải nhai (chew) và nuốt (swallow) tất cả đồ ăn trong miệng trước khi lấy thêm đồ ăn hay đồ uống.

Luôn nói “Thank you” khi được phục vụ (được đưa thêm đồ ăn hay nước uống) để thể hiện sự trân trọng (appreciation)

Bạn có thể ăn gà, bánh pizza bằng tay nếu như bạn ở trong một buổi tiệc nướng, hay tiệc đứng, hay trong những bối cảnh thân mật. Những trường hợp khác, luôn cần phải sử dụng dao và dĩa.

Khi ăn bánh mỳ nhỏ (roll – loại bánh mỳ nhỏ hay dùng để ăn sáng), cần phải cắt nhỏ bánh mỳ trước khi phết bơ (buttering).

Khi dùng bữa trong những bối cảnh trang trọng, thường bạn nên lấy bơ từ đĩa bơ với dao cắt bánh mỳ (bread knife) và để cạnh đĩa của mình. Sau đó mới phết bơ lên bánh mỳ từ miếng bơ này, để tránh cho miếng bơ chung bị dính đầy vụn bánh mỳ (bread crumbs)

Ở nhà hàng, thường bạn sẽ trả tiền bằng cách đặt tiền lên đĩa đựng hoá đơn (bill) được người phục vụ mang tới.

 

……..và những điều không nên (Shouldn’t-do)

Không được liếm và cho dao ăn vào miệng.

Sẽ là bất lịch sự nếu như bắt đầu ăn trước khi những người khác được phục vụ đồ ăn, trừ khi người chủ nhà/chủ tiệc nói rằng bạn không cần phải đợi.

Không bao giờ được nhai mà mở miệng, và không nên tạo ra âm thanh khi nhai, nuốt đồ ăn.

Để khuỷu tay (elbow) lên bàn trong khi đang ăn cũng bị coi là bất lịch sự.

Không được với người sang đĩa của ai đó để lấy cái gì, hãy đề nghị người ta truyền thứ đó sang cho bạn

Không nên nói chuyện khi thức ăn còn trong miệng.

Cũng không nên giữ quá nhiều đồ ăn trong miệng.

Không sử dụng các ngón tay để bốc đồ ăn vào thìa hay dĩa.

Rất bất lịch sự nếu nhai nhóp nhép (slurp) hay gây tiếng ồn khi ăn.

Không được phép xì mũi vào khăn ăn (napkip/serviette). Khăn ăn/giấy ăn chỉ dành để lau nhẹ, chấm nhẹ (dabbing) lên môi (lips) và chỉ dành vào việc đó.

Không được lấy thức ăn từ đĩa của người bên cạnh

Không được lấy móng tay lấy thức ăn bị dắt trong kẽ răng.

 

Những điều được phép làm (OK to Do)

Bạn có thể tự rót đồ uống cho mình khi ăn cùng người khác, nhưng nếu lịch sự hơn thì nên đề nghị rót cho những người ngồi đối diện bạn trong bàn ăn.

Bạn có thể cho sữa và đường vào trà hay cà phê hoặc uống mà không cần cả hai thứ trên.

Nếu bạn không quen với việc sử dụng dao và dĩa?

Khi ăn tối theo kiểu Âu (continental style), dao sẽ được cầm phía bên phải, và dĩa cầm tay trái (sẽ là ngược lại nếu bạn là người tay chiêu). Phía trên của đĩa, sẽ là thìa và dĩa dành cho món tráng miệng (dessert spoon and fork)

Nếu bạn tới dự một bữa tối trang trọng (formal dinner party), bạn sẽ bắt gặp rất nhiều các loại thìa dĩa khác nhau. Phải làm thế nào bây giờ? Hãy làm quen với chúng và sử dụng cho đúng nhé.

Table manner

Trong trường hợp như có vẻ bạn sẽ không thể nào ăn hết phần đồ ăn của mình vì quá nhiều.

Hãy nói:

“I’m sorry, but it seems that ‘my eyes are bigger than my stomach’.

(Tôi xin lỗi, nhưng có vẻ tôi no cái bụng đói con mắt)

Hoặc

“I’m sorry. It was so delicious but I am full”.

(Tôi xin lỗi. Đồ ăn ngon quá nhưng tôi no mất rồi)

 

Dao và dĩa (Story of Knife and fork)

Dĩa được được dùng bằng tay trái và dao bằng tay phải.

Fork, knife and steak.

Nếu bạn cầm dao bằng một tay, thì tay kia cầm dĩa không được hướng phần nanh (tines) lên trên.

Giữ dao với phần tay cầm trong long bàn tay (palm) và dĩa ở tay kia với phần chĩa hướng xuống dưới.

Khi dùng bữa ở những bối cảnh trang trọng, có thể đặt dao và dĩa xuống khi đang ăn, hoặc khi nghỉ để trò chuyện.

Khi bạn đặt dao xuống, bạn có thể đổi tay cầm dĩa sang tay phải.

Khi bạn đã dùng bữa xong, để cho những người khác biết, bạn đặt dao và dĩa cùng với nhau lên đĩa, với răng dĩa (prongs) hướng lên trên.

Cutlery Finished

Khi bạn chỉ dùng dĩa, nên cầm dĩa kẹp giữa ngón trỏ (index finger) và ngón cái (thumb).

 

Hoàng Huy

Bản quyền thuộc về English4ALL.vn

 

 

 

 

 

Quan trọng nhất là không làm phiên lòng chủ nhà.